Chức năng sinh sản ở nam và nữ đều chịu ảnh hưởng của tính di truyền. Do đó, nếu nam hoặc nữ giới trong gia đình có tiền sử bất thường di truyền đều có nguy cơ bị vô sinh.
Vô sinh có di truyền không?
Tình trạng vô sinh ngày càng trở nên phổ biến nhưng ít người biết rằng, nguyên nhân vô sinh còn do bất thường về di truyền.
Các bất thường di truyền có thể chia thành 3 nhóm chính: bất thường nhiễm sắc thể về số lượng và cấu trúc, đột biến các gen liên quan đến chức năng sinh sản (như các gen nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X/Y, hoặc các gen nằm trên nhiễm sắc thể thường), và bất thường đơn gen (như gen ty thể, gen điều hòa tính thấm qua màng xơ nang,…)
Các yếu tố di truyền tác động lên tất cả các giai đoạn của hệ thống sinh sản bao gồm: hình thành giới tính, quá trình sinh giao tử (trứng và tinh trùng), cũng như những giai đoạn đầu phát triển của phôi. Do đó, cả nam và nữ giới đều có thể phải chịu ảnh hưởng của những bất thường di truyền này
Di truyền gây vô sinh ở nữ
Bất thường về số lượng và cấu trúc nhiễm sắc thể và hội chứng đứt gãy nhiễm sắc thể X là nguyên nhân thường gặp dẫn đến vô sinh nữ.
Ở những gia đình có tiền sử sản khoa phức tạp (như sẩy thai liên tiếp, đặc biệt ở giai đoạn sớm hay những tháng đầu của thai kỳ, trẻ tử vong ngay sau sinh, dị tật bẩm sinh…) thì nguyên nhân do bất thường nhiễm sắc thể gây ra chiếm tỷ lệ từ 5 – 15%.
Có đến 5% trường hợp nữ bị mãn kinh sớm do mang nhiễm sắc thể X bị đứt gẫy. Hội chứng này là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra những tổn hại bẩm sinh cho sự phát triển tâm thần và đây là hội chứng điển hình ở các bé nam (từ mẹ truyền sang cho con trai).
Di truyền gây vô sinh ở nam
Các trường hợp vô sinh nam do nguyên nhân di truyền chiếm tỷ lệ 10 – 15% bao gồm rối loạn nhiễm sắc thể, đột biến DNA ti thể, rối loạn di truyền đơn gen, rối loạn di truyền đa yếu tố và bất thường di truyền dẫn đến rối loạn nội tiết.
Sự bất thường di truyền được phát hiện ở những bệnh nhân nam bị thiểu tinh và vô tinh thường là những bất thường về số lượng và cấu trúc nhiễm sắc thể.
Các trường hợp do chuyển đoạn nhiễm sắc thể bao gồm chuyển đoạn 13/14 và các chuyển đoạn trên các nhiễm sắc thể 1, 3, 5, 6 hay 10. Các bất thường nhiễm sắc thể này có thể gây cản trở quá trình giảm phân, làm giảm khả năng tạo tinh trùng và có thể dẫn đến vô sinh.
Bệnh vô sinh ở nam còn chịu tác động của các rối loạn di truyền đơn gen. Có trên 50 loại di truyền đơn gen liên quan đến vô sinh nam, và một số trong đó đã được biết rõ.
Có hai gen quan trọng liên quan đến quá trình sinh tinh là gen thụ thể androgen nằm trên nhiễm sắc thể X và gen điều hòa tính thấm qua màng xơ nang nằm trên cánh dài của nhiễm sắc thể số 7. Nếu một trong hai gen này bị đột biến điểm sẽ dẫn đến quá trình sinh tinh bị thất bại. Khi gen androgen bị đột biến, thì người nam có bộ nhiễm sắc thể là 46,XY sẽ có kiểu hình bên ngoài của một người nữ (do estrogen từ tuyến thượng thận) và bên trong bất thụ (do chịu ảnh hưởng của AMDF, không có cơ quan sinh dục nữ ). Khi gen điều hòa tính thấm qua màng xơ nang bị đột biến sẽ dẫn đến bất sản bẩm sinh ống dẫn tinh hai bên chiếm tỷ lệ 2 – 6%.
Một trong các tổn thương di truyền liên quan đến bệnh lý ở những bệnh nhân vô sinh nam là mất đoạn nhỏ trên cánh dài của nhiễm sắc thể Y. Ở những trường hợp tổn thương này 13% vô tinh, 1% – 7% thiểu tinh, 5 % tổn thương tinh hoàn nguyên phát với mật độ tinh trùng ít hơn 5 triệu/ml. Sự mất đoạn De novo trên nhiễm sắc thể Y là một trong những bất thường phổ biến nhất, góp phần làm tăng sự tái tổ hợp giữa các trình tự lặp lại trong quá trình giảm phân hoặc trong những giai đoạn phát triển sớm của quá trình tiền cấy phôi.
Ngoài những bất thường trong bộ gen, ở những bệnh nhân vô sinh nam còn gặp những bất thường ở DNA ti thể gây ảnh hưởng đến khả năng di chuyển của tinh trùng. Sự rối loạn di truyền đơn gen cũng có thể kích thích di truyền đa gen cùng với điều kiện môi trường bất lợi cũng là một trong những nguyên nhân di truyền gây vô sinh ở nam.
Tuy nhiên, trong tất cả các nguyên nhân di truyền thì nguyên nhân rối loạn di truyền do mất đoạn trên nhiễm sắc thể Y là nguyên nhân đặc biệt quan trọng vì nó có thể chuyển những bất thường di truyền cho thế hệ con cháu.
Việc khảo sát di truyền tế bào và di truyền phân tử không chỉ giúp chẩn đoán xác định nguyên nhân vô sinh mà còn giúp tư vấn di truyền cho người bệnh nên hay không nên mang thai cũng như những bệnh lý di truyền có thể gặp ở đứa trẻ sinh ra. Do đó, khi bị vô sinh – hiếm muộn, người bệnh cần đến bệnh viện để được các bác sĩ thăm khám, chẩn đoán và có biện pháp điều trị phù hợp cũng như tư vấn cách hạn chế tối đa những bất thường di truyền ảnh hưởng đến tương lai sau này.